Ảnh minh họa |
Hỏi: Tôi có hợp đồng lao động (HĐLĐ) với một ngân hàng thương mại cổ phần trong đó ngoài việc ghi nhận mức lương chính, trên hợp đồng còn có ghi "Hưởng lương kinh doanh, các khoản phụ cấp khác" như: công tác phí, phụ cấp trách nhiệm... các khoản này tương đối lớn trong tổng thu nhập của tôi.
Vừa qua ngân hàng chấm dứt HĐLĐ với tôi theo nguyện vọng của tôi thì ngân hàng tính trợ cấp thôi việc chỉ căn cứ trên lương chính mà không tính các khoản khác kể cả lương kinh doanh hàng tháng tôi được nhận. Như vậy ngân hàng căn cứ vào mức lương chính để tính có đúng không?
Trả lời: Theo Điều 48 Bộ luật Lao động 2013 quy định: “Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.
Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc”.
Như vậy, trong HĐLĐ giữa ngân hàng và bạn không ghi rõ các khoản phụ cấp nên căn cứ theo điều 48 Bộ luật Lao động bạn chỉ được hưởng mức trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động là đúng pháp luật.
Do đó, các khoản lương kinh doanh, phụ cấp nêu trên không ghi nhận cụ thể trên hợp đồng là bao nhiêu nhưng được ghi trên các tờ trình, quyết định khi có phát sinh thì những khoản này cũng không được tính là mức lương để tính trợ cấp thôi việc.