Giải đáp thắc mắc về chi phí tính thu nhập chịu thuế | |
Giải đáp thắc mắc về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào | |
Giải đáp thắc mắc về hóa đơn GTGT |
Ảnh minh họa |
Cụ thể, theo ông Trung, xuất phát từ việc bộ Luật Dân sự 2015 thay đổi, quy định chủ thể chỉ bao gồm cá nhân, pháp nhân (bỏ chủ thể hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân), nên Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 39/2016/TT-NHNN.
Theo khoản 3, Điều 2, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước: “Khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng (sau đây gọi là khách hàng) là pháp nhân, cá nhân”. Như vậy, tổ chức không có tư cách pháp nhân sẽ không đủ tư cách chủ thể vay vốn bao gồm: hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân,...
Tuy nhiên, khoản 5, Điều 2, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định: “5. Cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác (sau đây gọi là hoạt động kinh doanh) là việc tổ chức tín dụng cho vay đối với khách hàng là pháp nhân, cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngoài quy định tại khoản 4 Điều này, bao gồm nhu cầu vốn của pháp nhân, cá nhân đó và nhu cầu vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân mà cá nhân đó là chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân”.
Theo khoản 1, Điều 183, Luật Doanh nghiệp 2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”.
Căn cứ các quy định trên, kể từ sau ngày 15/03/2017: Hợp đồng tín dụng vay vốn giữa doanh nghiệp tư nhân với tổ chức tín dụng sẽ ký giữa cá nhân (cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân) với tổ chức tín dụng.
Do vậy, doanh nghiệp xin được giải đáp thắc mắc: Việc hợp đồng tín dụng vay vốn giữa doanh nghiệp tư nhân với tổ chức tín dụng sẽ ký giữa cá nhân (cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân) với tổ chức tín dụng như trên, vốn vay được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, thì chi phí lãi vay mà cá nhân (cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân) đã trả cho tổ chức tín dụng có được xem là chi phí hợp pháp và được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế doanh nghiệp hay không?
Theo doanh nghiệp, việc bỏ chủ thể vay vốn hộ gia đình, hộ kinh doanh chỉ là thay đổi hình thức tên gọi cho phù hợp thông lệ chung của thế giới, còn bản chất vẫn như cũ. Mặc dù, vốn vay và chi phí lãi vay đứng tên là cá nhân (cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân), nhưng chủ doanh nghiệp vẫn ghi chép đầy đủ vốn vay, chi phí lãi vay sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Vì vậy, chi phí lãi vay mà cá nhân (cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân) đã trả cho tổ chức tín dụng phải được xem là chi phí hợp pháp và được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế doanh nghiệp.
Doanh nghiệp mong nhận được giải đáp thắc mắc trên để doanh nghiệp hạch toán sổ sách kế toán được đúng và chính xác.
Về việc này, Ngân hàng Nhà nước có ý kiến:
Tại văn bản hợp nhất Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014, Điều 9 về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế quy định Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều này; Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngàỵ 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (được sửa đổi,bổ sung bởi Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014), Điều 9 về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịụ thuế quy định Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về chi phí được trừ và không được trừ quy định tại Điều này.
Như vậy, căn cứ quy định tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thì việc xác định chi phí lãi vay của cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân đó được trừ hoặc không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế doanh nghiệp là thuộc thẩm quyền xử lý của Bộ Tài chính. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị Văn phòng Chính phủ chuyển kiến nghị của ông Lê Hiếu Trung cho Bộ Tài chính có ý kiến trả lời cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài chính.
Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức tín dụng) đối với khách hàng, trong đó quy định khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng là pháp nhân và cá nhân; quy định này phù hợp với quy định về chủ thể tham gia giao dịch dân sự tại Bộ luật dân sự năm 2015.
Theo đó, đối với tổ chức không có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân thì tổ chức tín dụng xem xét cho vay đối với cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân phù hợp với quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN và Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo quy định tại Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 thì người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuât, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế (trong đó có doanh nghiệp tư nhân) nên chi phí lãi vay phát sinh từ việc cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân vay vốn ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp tư nhân đó có thể không được xem xét khấu trừ khi tính thuế thu nhập của doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện quy định tại Thông tư số 39/2Q16/TT-NHNN, một số doanh nghiệp tư nhân và tổ chức tín dụng đã phản ánh khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc khấu trừ chi phí lãi vay ngân hàng này khi xác định thu nhập chịu thuế của chủ doanh nghiệp tư nhân vay vốn.
Để tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp tư nhân và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng theo chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản đề nghị Bộ Tài chính xem xét hướng dẫn cho phép khấu trừ chi phí lãi tiền vay khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp tư nhân đối với trường hợp cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân vay vốn tại tổ chức tín dụng để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của chính doanh nghiệp tư nhân đó.
Chính phủ